Viện Giáo Lý
1 Lấy Đức Tin mà Cầu Xin


“Lấy Đức Tin mà Cầu Xin,” chương 1 của sách Các Thánh Hữu: Câu Chuyện về Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô, Tập 1, Cờ Hiệu về Lẽ Thật, 1815-1846 (2018)

Chương 1: “Lấy Đức Tin mà Cầu Xin”

Chương 1

Lấy Đức Tin mà Cầu Xin

Hình Ảnh
Núi Tambora

Vào năm 1815, ở đảo Sumbawa của Indonesia cây cối xum xuê tươi tốt vì nhiều mưa. Trong nhiều thế hệ, như lệ thường, các gia đình đang chuẩn bị cho mùa khô trước mắt, gặt lúa ở dưới chân ngọn núi lửa có tên là Tambora.

Vào ngày 5 tháng Tư, sau nhiều thập niên chìm sâu trong giấc ngủ, ngọn núi bất ngờ trỗi dậy, phun ra tro và lửa. Cách đó hàng trăm dặm, người ta nghe tiếng nổ vang lên giống như tiếng súng đại bác. Những đợt phun trào nhỏ tiếp tục trong mấy ngày. Rồi vào ngày 10 tháng Tư, cả quả núi nổ tung. Ba cột lửa nóng phun lên trời, tạo thành một đám khói mù mịt khổng lồ. Chất nóng tràn xuống sườn núi, bao phủ làng mạc dưới chân núi. Những cơn gió cuốn hoành hành dữ dội khắp vùng, bật tung cây cối và cuốn trôi nhà cửa.1

Những cảnh náo động tiếp tục suốt đêm hôm đó và kéo dài sang ngày hôm sau. Tro bụi bao phủ nhiều cây số khắp biển và đất liền, có những nơi cao tới 1,5 mét. Giữa ban ngày mà tưởng chừng như giữa đêm. Biển động tràn vào đất liền, phá hủy mùa màng và cuốn trôi làng mạc. Trong nhiều tuần, Tambora là nguyên nhân gây ra những trận mưa đá, tro bụi, và lửa.2

Trong vài tháng tiếp theo đó, ảnh hưởng của sự phun trào này lan tràn khắp địa cầu. Những cảnh hoàng hôn ngoạn mục gây cảm ứng cho nhiều người trên khắp thế giới. Nhưng mầu sắc rực rỡ đó che giấu hậu quả gây chết người của tro núi lửa khi nó lan tràn khắp mặt đất. Trong năm kế tiếp, thời tiết trở nên khó dự đoán và đầy thảm khốc.3

Sự phun trào của núi lửa khiến nhiệt độ ở Ấn Độ suy giảm, và bệnh dịch tả gây ra cái chết của hàng ngàn người, phá hoại nhiều gia đình. Trong những thung lũng phì nhiêu ở Trung Quốc, mùa màng bị phá hủy bởi những trận bão tuyết mùa hè thay vì khí hậu ấm áp và mưa gió ngập lụt như thường lệ. Tại Châu Âu, nguồn cung cấp thực phẩm giảm sút, gây ra chết đói và hoảng loạn.4

Ở khắp nơi, người ta tìm kiếm lời giải thích cho sự đau khổ và cái chết do thời tiết lạ lùng gây ra. Những lời cầu nguyện và tụng kinh của những người sùng đạo không ngừng vang vọng trong các ngôi đền của người Hinđu ở Ấn Độ. Các thi sĩ Trung Quốc vật lộn tìm kiếm giải đáp cho những thắc mắc của họ về sự đau đớn và cái chết. Ở Pháp và Anh, dân chúng quỳ xuống, lo sợ rằng những tai họa đã được tiên tri trong Kinh Thánh đang giáng xuống họ. Ở Bắc Mỹ, các mục sư rao giảng rằng Thượng Đế đang trừng phạt các Ky Tô Hữu ương ngạnh, và họ lặp đi lặp lại những lời cảnh báo để làm khuấy động những cảm nghĩ tôn giáo.

Trên khắp thế giới, người ta đổ xô đến nhà thờ và các buổi nhóm họp tôn giáo, khát khao muốn biết làm thế nào họ có thể được cứu khỏi sự hủy diệt gần kề.5


Sự phun trào của Núi Tambora đã làm ảnh hưởng đến thời tiết ở Bắc Mỹ trong suốt năm kế tiếp. Mùa xuân kết thúc với tuyết rơi và sương giá phá hủy mùa màng, và năm 1816 được biết đến là năm không có mùa hè.6 Tại Vermont, ở góc đông bắc của Hoa Kỳ, những ngọn đồi lởm chởm đá làm nản lòng một người nông dân tên là Joseph Smith Sr. trong suốt nhiều năm. Nhưng vào mùa đó, khi ông và vợ là Lucy Mack Smith, chứng kiến mùa màng của họ liên tiếp bị hủy hoại bởi sương giá, thì họ biết rằng họ sẽ gặp nguy hại về mặt tài chính và một tương lai bấp bênh nếu họ tiếp tục sinh sống ở nơi họ đang ở.

Ở tuổi 45, Joseph Sr. không còn trẻ nữa, và ý nghĩ làm lại từ đầu trên một vùng đất mới thật là khủng khiếp. Ông biết rằng các con trai lớn của ông, Alvin 18 tuổi và Hyrum 16 tuổi, có thể giúp ông khai hoang đất đai, xây cất nhà cửa và thu hoạch mùa màng. Đứa con gái mười ba tuổi của ông là Sophronia đã đủ lớn để có thể phụ giúp Lucy làm việc nhà và trong nông trại. Các con trai của ông, Samuel tám tuổi và William năm tuổi đã bắt đầu phụ giúp được, còn Katharine ba tuổi và cậu bé sơ sinh Don Carlos một ngày nào đó sẽ đủ lớn để phụ giúp.

Nhưng đứa con trai giữa của ông, Joseph Jr. mười tuổi, lại là một chuyện khác. Bốn năm trước, Joseph Jr. đã phải mổ để lấy đi chỗ nhiễm trùng ở chân. Kể từ lúc đó, cậu bé đã phải đi bằng nạng. Mặc dù chân của cậu đã bắt đầu vững trở lại, nhưng Joseph Jr. đi khập khiễng một cách đau đớn, và Joseph Sr. không biết con trai mình sẽ lớn lên mạnh khỏe như Alvin và Hyrum không.7

Họ chắc chắn có thể nương tựa lẫn nhau, và gia đình Smith quyết định bỏ lại căn nhà của họ ở Vermont để ra đi tìm một vùng đất tốt hơn.8 Giống như nhiều người khác trong khu vực, Joseph Sr. quyết định đi tới tiểu bang New York, nơi mà ông hy vọng sẽ tìm thấy một nông trại tốt mà có thể mua chịu. Sau đó ông sẽ báo cho Lucy và các con biết để họ cùng tới đó và gia đình họ có thể bắt đầu lại từ đầu.

Khi Joseph Sr. lên đường đến tiểu bang New York, Alvin và Hyrum đưa ông xuống tận đường để tiễn ông trước khi họ chia tay. Joseph Sr. rất yêu quý vợ con của ông, nhưng ông đã không thể lo liệu cho họ được ổn định trong cuộc sống. Sự không may mắn và công việc đầu tư không thành công đã khiến gia đình họ rơi vào cảnh nghèo khó và không nhà cửa. Có lẽ New York sẽ khác.9


Mùa đông kế tiếp, Joseph Jr. bước đi nặng nhọc vượt qua tuyết cùng mẹ và các anh chị em của mình. Họ đang đi về phía tây tiến đến một ngôi làng ở New York tên là Palmyra, gần nơi mà Joseph Sr. đã tìm thấy một mảnh đất tốt và đang chờ gia đình mình tới.

Vì chồng bà không thể giúp được, nên Lucy đã thuê một người tên là Howard đánh xe ngựa của gia đình họ. Trên đường đi, ông Howard đã không cẩn thận với đồ đạc của họ, và ông ta dùng số tiền họ trả cho ông để đánh bạc và nhậu nhẹt. Rồi sau khi có một gia đình khác cũng cùng hành trình về miền tây với gia đình họ, Ông Howard đã đuổi Joseph ra khỏi xe ngựa để mấy đứa con gái của gia đình kia có thể ngồi cùng với ông ta trong khi ông đánh xe ngựa.

Vì biết rằng Joseph sẽ rất đau đớn khi đi bộ, nên Alvin và Hyrum đã cố gắng bênh vực cho Joseph vài lần. Nhưng mỗi lần ông ta đều đuổi họ xuống bằng đầu roi của ông.10

Nếu Joseph lớn tuổi hơn, thì cậu đã có thể cố gắng tự mình dũng cảm đương đầu với Ông Howard. Cái chân đau đã ngăn cản cậu làm việc và chơi đùa, nhưng sự quyết tâm đã chiến thắng cơ thể ốm yếu của cậu. Trước khi các bác sĩ mổ chân cậu và lấy ra những miếng xương bị nhiễm trùng, họ đã muốn ghì chặt cậu xuống hoặc cho cậu dùng rượu để làm giảm cơn đau. Nhưng Joseph chỉ yêu cầu cha cậu giữ lấy cậu mà thôi.

Cậu đã thức và tỉnh táo trong suốt thời gian mổ, khuôn mặt của cậu tím tái và nhỏ đầy mồ hôi. Mẹ của cậu, là người thường rất mạnh mẽ, gần như mất hết tinh thần khi bà nghe thấy tiếng cậu hét. Sau lần đó, bà có thể cảm thấy rằng bà có thể chịu đựng được bất cứ điều gì.11

Trong khi Joseph bước đi khập khiễng bên cạnh cỗ xe ngựa, cậu có thể thấy mẹ mình chắc hẳn đang phải chịu đựng Ông Howard. Họ đã cùng hành trình được 300 km và cho đến giờ bà vẫn kiên nhẫn với hành vi khả ố của người đánh xe ngựa.


Khoảng 160 km cách Palmyra, trong khi Lucy đang sửa soạn mọi việc cho một ngày hành trình nữa, thì bà thấy Alvin chạy về phía bà. Ông Howard đã quăng hết mọi đồ dùng và va li của họ xuống đường và định bỏ đi cùng với ngựa và cỗ xe của họ.

Lucy tìm thấy ông ta trong một quán rượu. Bà tuyên bố: “Như Thượng Đế hằng hữu trên thiên thượng, cỗ xe ngựa cùng các con ngựa cũng như các đồ đạc trên đó là của tôi.”

Bà nhìn xung quanh quán rượu. Trong quán đầy những người đàn ông và phụ nữ, hầu hết đều là những lữ hành giống như bà. Bà vừa nói vừa nhìn vào họ: “Người đàn ông này, dự định lấy đi của tôi tất cả mọi thứ tôi có để tiếp tục cuộc hành trình, bỏ mặc tôi hoàn toàn cơ cực với tám đứa con thơ.”

Ông Howard đã nói rằng ông ta đã tiêu hết số tiền bà trả cho ông để đánh cỗ xe ngựa, và ông ta không thể đi xa hơn được nữa.

Lucy nói: “Tôi không cần đến ông nữa. Tôi sẽ tự mình đánh cỗ xe ngựa.”

Bà bỏ Ông Howard lại trong quán rượu, quyết tâm để cho con cái bà tái ngộ cùng cha của chúng, và lên đường bất chấp bất cứ khó khăn nào.12


Con đường trước mắt đầy bùn lầy và lạnh giá, nhưng Lucy đã đưa gia đình bà đến nơi an toàn ở Palmyra. Khi thấy các con bà ôm chầm lấy cha chúng và hôn lên má ông, bà cảm thấy được đền đáp cho tất cả những gì họ đã phải chịu đựng để đến được đó.

Gia đình họ lập tức thuê một ngôi nhà nhỏ trong thị trấn và bàn cách mua một nông trại.13 Họ quyết định cách tốt nhất là làm việc cho đến khi họ dành dụm đủ tiền đặt cọc để mua một miếng đất ở khu rừng gần đó. Joseph Sr. cùng các con trai lớn đào giếng, chẻ gỗ làm hàng rào, và cắt cỏ kiếm tiền, trong khi Lucy và các con gái làm và bán bánh nướng, nước xá xị, và những tấm vải trang trí để kiếm tiền mua thức ăn cho gia đình.14

Khi Joseph Jr. lớn hơn, chân của cậu khỏe mạnh hơn và cậu đã có thể đi lại dễ dàng trong khắp Palmyra. Trong thị trấn, cậu gặp gỡ nhiều người từ tất cả các giáo phái khác nhau, và nhiều người trong số họ tìm đến tôn giáo để thỏa mãn nỗi khát khao phần thuộc linh và giải thích những nỗi khổ cực của cuộc sống. Joseph và gia đình ông không thuộc vào một giáo hội nào, nhưng nhiều người hàng xóm của họ thờ phượng tại một trong những giáo đường của giáo hội Presbyterian, nhà hội của giáo hội Baptists, các giáo đường của giáo phái Quaker, hoặc ở những nơi hội họp ngoài trời nơi mà các nhà thuyết giáo thuộc giáo phái Methodist thỉnh thoảng tổ chức những buổi nhóm họp khuấy động.15

Khi Joseph được 12 tuổi, những cuộc tranh cãi về tôn giáo đã lan tràn khắp Palmyra. Mặc dù hầu như không đọc được chữ, nhưng cậu thích trầm ngâm suy nghĩ về những ý tưởng. Cậu lắng nghe các nhà thuyết giáo, hy vọng học hỏi thêm về linh hồn bất diệt của mình, nhưng những bài giảng của họ thường làm cho cậu cảm thấy hoang mang. Họ nói rằng cậu là một người có tội trong một thế giới đầy tội lỗi, vô phương cứu chữa nếu không có ân điển cứu rỗi của Chúa Giê Su Ky Tô. Và trong khi Joseph tin vào sứ điệp này và cảm thấy áy náy về những tội lỗi của mình, cậu đã không chắc chắn về cách tìm được sự tha thứ.16

Cậu nghĩ việc tham dự lễ nhà thờ có thể giúp đỡ cậu, nhưng cậu không biết chắc phải thờ phượng ở nơi nào. Các giáo phái khác nhau đều không ngừng tranh cãi về cách con người có thể được tha tội. Sau khi lắng nghe những cuộc tranh cãi này một thời gian, Joseph cảm thấy lo lắng khi thấy người ta đọc cùng một Kinh Thánh nhưng lại hiểu Kinh Thánh theo những ý nghĩa khác nhau. Cậu tin rằng lẽ thật của Thượng Đế là hiện hữu—ở đâu đó—nhưng cậu không biết làm thế nào để tìm ra lẽ thật đó.17

Cha mẹ của cậu cũng không biết chắc chắn. Lucy và Joseph Sr. đều sinh trưởng trong gia đình Ky Tô hữu, và đều tin vào Kinh Thánh và Chúa Giê Su Ky Tô. Lucy tham dự các buổi lễ nhà thờ và thường xuyên dẫn theo các con của bà. Bà đã đang tìm kiếm giáo hội chân chính của Chúa Giê Su Ky Tô kể từ sau cái chết của người chị gái của bà nhiều năm trước.

Có lần bà bị ốm rất nặng trước khi Joseph ra đời, bà đã sợ hãi rằng mình sẽ chết trước khi tìm thấy lẽ thật. Bà đã cảm thấy một bóng tối và sự ngăn cách cô độc giữa bà và Đấng Cứu Rỗi, và bà biết mình chưa chuẩn bị cho cuộc sống kế tiếp.

Bà đã thức cầu nguyện lên Thượng Đế cả đêm, hứa với Thượng Đế rằng nếu Ngài cho bà sống, bà sẽ tìm ra giáo hội của Chúa Giê Su Ky Tô. Khi bà cầu nguyện, tiếng nói của Chúa đã ngỏ lời với bà, và cam kết với bà rằng nếu bà tìm kiếm thì bà sẽ tìm ra. Bà đã tới thăm nhiều giáo hội hơn kể từ lúc đó, nhưng bà vẫn chưa tìm ra giáo hội đúng. Thậm chí khi cảm thấy như thể giáo hội của Đấng Cứu Rỗi không còn tồn tại trên thế gian nữa, bà vẫn tiếp tục tìm kiếm, tin cậy rằng việc tham dự lễ nhà thờ thì vẫn tốt hơn là không.18

Giống như người vợ của mình, Joseph Sr. cũng khao khát tìm ra lẽ thật. Nhưng ông cảm thấy rằng thà không tham dự lễ nhà thờ còn hơn là tham dự một giáo hội sai lầm. Làm theo lời khuyên bảo của cha mình là Joseph Sr., cậu đã tìm kiếm trong thánh thư, sốt sắng cầu nguyện, và tin tưởng rằng Chúa Giê Su Ky Tô đã tới để cứu rỗi thế gian.19 Nhưng cậu vẫn chưa thể hòa giải điều cậu đã cảm thấy với sự lộn xộn và bất hòa mà cậu nhìn thấy ở các giáo hội xung quanh mình. Vào một đêm, cậu đã nằm mơ thấy những người thuyết giáo tranh cãi giống như thú vật, gầm rống lên trong khi chúng dùng sừng đào xuống đất, mà đã làm gia tăng mối bận tâm trong cậu rằng họ không biết gì về vương quốc của Thượng Đế.20

Việc nhìn thấy sự bất mãn của cha mẹ mình với các giáo hội ở địa phương càng gây hoang mang hơn cho Joseph Jr.21 Tâm hồn cậu đang bị đe dọa, nhưng không một ai có thể đưa ra cho cậu câu trả lời làm cậu thỏa mãn cả.


Sau khi dành dụm tiền được hơn một năm, gia đình Smith đã có đủ tiền để mua một miếng đất rộng 40 héc ta trong một khu rừng ở Manchester, phía nam Palmyra. Ở đây, trong những lúc không đi làm thuê, thì họ đục lỗ vào những cây sồi để lấy ra đường, trồng một vườn cây ăn quả, và khai hoang đất đai để trồng trọt.22

Trong khi làm việc trên nông trại, Joseph tiếp tục lo lắng về tội lỗi cùng sự an lạc trong tâm hồn của mình. Sự phục hưng tôn giáo ở Palmyra đã giảm sút rất nhiều, nhưng những những người thuyết giáo vẫn tiếp tục ganh đua để có người cải đạo ở đó và trong khắp giáo hội.23 Ngày và đêm, Joseph ngắm mặt trời, mặt trăng, và các vì sao chuyển động trên các tầng trời một cách trật tự và trong vẻ uy nghiêm và cậu cảm kích trước vẻ đẹp của trái đất tràn đầy sự sống. Cậu cũng quan sát mọi người xung quanh và kinh ngạc trước sức mạnh và tri thức của họ. Tất cả mọi sự việc đều dường như làm chứng rằng Thượng Đế hằng hữu và Ngài đã sáng tạo ra loài người giống như hình Ngài. Nhưng làm thế nào Joseph có thể tìm đến Ngài?24

Vào mùa hè năm 1819, năm Joseph mười ba tuổi, những người thuyết giáo thuộc giáo hội Methodist tụ họp để tổ chức một buổi đại hội cách nông trại của gia đình Smith chỉ một vài cây số và lan tràn khắp làng quê nhằm mục đích thuyết phục những gia đình như gia đình Joseph cải đạo theo họ. Sự thành công của những người thuyết giáo này làm cho các mục sư trong vùng lo lắng, và chẳng mấy chốc sự tranh đua để có được nhiều người cải đạo trở nên dữ dội.

Joseph tham dự các buổi họp đó, lắng nghe những bài giảng làm khuấy động tâm hồn, và chứng kiến những người cải đạo reo mừng. Cậu đã muốn hét lên với họ, nhưng lại thường xuyên cảm thấy mình đang ở giữa trận khẩu chiến và ý niệm. Cậu tự hỏi mình: “Trong số các giáo phái này, giáo phái nào đúng, hay là tất cả họ đều sai lầm? Nếu có một giáo phái nào đúng, thì đó là giáo phái nào, và làm sao tôi biết được?” Cậu biết mình cần ân điển và lòng thương xót của Đấng Ky Tô, nhưng với quá nhiều người và nhiều giáo phái xung đột về tôn giáo, cậu không biết tìm nó ở đâu.25

Niềm hy vọng có thể tìm được câu trả lời—và sự bình an cho tâm hồn cậu—dường như đang dần dần tan biến. Cậu tự hỏi làm thế nào một người có thể tìm kiếm lẽ thật giữa cảnh ồn ào nhiều như vậy.26


Trong khi lắng nghe một bài thuyết giáo, Joseph nghe thấy một mục sư trích dẫn từ chương một của sách Gia Cơ trong Kinh Tân Ước. Vị ấy nói: “Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc ai.”27

Joseph về nhà và đọc câu đó trong Kinh Thánh. Sau đó, câu nhớ lại, “Thật chưa có một đoạn thánh thư nào lại có tác dụng xúc động tâm hồn con người mãnh liệt bằng đoạn thánh thư này đối với tôi lúc bấy giờ. Tôi tưởng chừng như có một sức mạnh lớn lao xuyên thẳng vào tận đáy tim tôi. Tôi suy ngẫm mãi về đoạn thánh thư trên và ý thức được rằng nếu có người nào cần đến sự khôn ngoan từ Thượng Đế, thì người ấy chính là tôi.” Cậu đã tìm kiếm Kinh Thánh trước đây như thể nó chứa đựng tất cả mọi câu trả lời. Nhưng giờ đây Kinh Thánh cho cậu biết rằng cậu có thể trực tiếp tìm đến Thượng Đế để có được những câu trả lời riêng tư cho những câu hỏi của cậu.

Joseph quyết định cầu nguyện. Cậu chưa bao giờ cầu nguyện thành tiếng, nhưng cậu tin cậy lời hứa trong Kinh Thánh. Sách đó dạy rằng: “Phải lấy đức tin mà cầu xin, chớ nghi ngờ.”28 Thượng Đế sẽ nghe được những câu hỏi của cậu—thậm chí nếu cậu cầu vấn một cách lúng túng.

Ghi Chú

  1. Raffles, “Narrative of the Effects of the Eruption,” 4–5, 19, 23–24.

  2. Raffles, “Narrative of the Effects of the Eruption,” 5, 7–8, 11.

  3. Wood, Tambora, 97.

  4. Wood, Tambora, 78–120; Statham, Indian Recollections, 214; Klingaman and Klingaman, Year without Summer, 116–18.

  5. Wood, Tambora, 81–109; Klingaman and Klingaman, Year without Summer, 76–86, 115–20.

  6. Klingaman and Klingaman, Year without Summer, 48–50, 194–203.

  7. Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 131; Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 2, [11]–quyển 3, [2]. Đề Tài: Joseph Smith’s Leg Surgery

  8. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [3]; Stilwell, Migration from Vermont, 124–50.

  9. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [4]; Bushman, Rough Stone Rolling, 18–19, 25–28. Đề Tài: Joseph Sr. and Lucy Mack Smith Family

  10. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [5]; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 131–32.

  11. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [2]; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 131.

  12. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [5]–[6]; Lucy Mack Smith, History, 1845, 67; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 132. Đề Tài: Lucy Mack Smith

  13. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [6]–[7].

  14. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [7]; Tucker, Origin, Rise, and Progress of Mormonism, 12. Đề Tài: Joseph Sr. and Lucy Mack Smith Family

  15. Cook, Palmyra and Vicinity, 247–61. Các Đề Tài: Palmyra and Manchester; Christian Churches in Joseph Smith’s Day

  16. Joseph Smith History, circa Summer 1832, 1–2, trong JSP, H1:11–12.

  17. Joseph Smith—Lịch Sử 1:5-6Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, [1]–2, trong JSP, H1:208–10 (bản 2). Đề Tài: Religious Beliefs in Joseph Smith’s Day

  18. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 2, [1]–[6]; “Records of the Session of the Presbyterian Church in Palmyra,” ngày 10 tháng Ba năm 1830.

  19. Asael Smith tới “My Dear Selfs,” ngày 10 tháng Tư năm 1799, Asael Smith, Thư và Hồ Sơ Gia Phả, 1799, circa 1817–46, Thư Viện Lịch Sử Giáo Hội.

  20. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, miscellany, [5]; Anderson, Joseph Smith’s New England Heritage, 161–62.

  21. Joseph Smith—Lịch Sử 1:8–10; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 2, trong JSP, H1:208–10 (bản thảo 2). Đề Tài: Religious Beliefs in Joseph Smith’s Day

  22. Lucy Mack Smith, History, 1844–45, quyển 3, [8]–[10]; Joseph Smith History, circa Summer 1832, 1, trong JSP, H1:11. Đề Tài: Sacred Grove and Smith Family Farm

  23. Đề Tài: Awakenings and Revivals

  24. Công Vụ Các Sứ Đồ 10:34–35; Joseph Smith History, circa Summer 1832, 2, trong JSP, H1:12.

  25. Neibaur, Journal, ngày 24 tháng Năm năm 1844, có sẵn tại josephsmithpapers.org; Joseph Smith—Lịch Sử 1:10; Joseph Smith, “Church History,” Times and Seasons, ngày 1 tháng Ba năm 1842, 3:706, trong JSP, H1:494.

  26. Joseph Smith, Journal, Nov. 9–11, 1835, trong JSP, J1:87; Joseph Smith—Lịch Sử 1:8–9; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 2, trong JSP, H1:210 (bản thảo 2).

  27. “Wm. B. Smith’s Last Statement,” Zion’s Ensign, ngày 13 tháng Một năm 1894, 6; Gia Cơ 1:5.

  28. Joseph Smith—Lịch Sử 1:11–14; Joseph Smith History, 1838–56, tập A-1, 2–3, trong JSP, H1:210–12 (bản thảo 2); Gia Cơ 1:6.