2002
Các Chị Em Là Những Người Đều Được Thượng Đế Gửi Đến Đây
Tháng Mười Một Năm 2002


Các Chị Em Là Những Người Đều Được Thượng Đế Gửi Đến Đây

Vai trò của các chị em với tư cách là các chị em phụ nữ thì rất đặc biệt và độc đáo trong công việc của Chúa. Các chị em là những người nuôi dưỡng và chăm sóc.

Thưa các chị em thân mến của tôi, sự hiện diện của các chị em thật là đông đảo, và tôi thấy khiêm nhường trước điều đó. Với lòng biết ơn, chúng ta ghi nhận sự hiện diện của Chủ Tịch Hinckley và Chủ Tịch Monson. Phần âm nhạc do ca đoàn đảm trách đã nâng tinh thần của chúng ta lên rất cao. Lời cầu nguyện của Chị Sainz là một lời mời gọi các phước lành và quyền năng của Chúa đến với chúng ta. Các sứ điệp đầy soi dẫn của Chị Bonnie Parkin, Chị Kathleen Hughes và Chị Anne Pingree thì thật là xuất sắc. Chủ Tịch Hinckley, Chủ Tịch Monson và tôi đã tham gia vào việc phong nhiệm và ban phước cho ba chị em này là chủ tịch đoàn trung ương của Hội Phụ Nữ. Trách nhiệm đầy soi dẫn của họ là để lãnh đạo tổ chức vĩ đại này của các chị em phụ nữ dưới sự hướng dẫn của chức tư tế. Các phước lành được ban chung cho ba chị em này và riêng cho mỗi chị em thì rất sâu sắc. Khi Chủ Tịch Hinckley phong nhiệm cho Chị Parkin, ông đã nhắc nhở các chị em này rằng “Tiên Tri Joseph Smith đã phác thảo công việc của Hội Phụ Nữ là để đưa tay ra giúp đỡ các nhu cầu của những người nghèo khó, túng thiếu, lo âu và đau buồn, và để ban phước cho các phụ nữ.”

Chủ đề của chúng ta đêm nay là “Thưa Chúa; tôi đây, xin phái tôi đi.” Lời phát biểu giản dị sâu sắc này thật thích hợp khi cho tôi ngỏ lời cùng các chị em buổi tối này bởi vì có rất nhiều người trong số các chị em hết lòng chứng tỏ sự sẵn sàng tình nguyện phục vụ. Các chị em đều là những người được Thượng Đế gửi đến đây. Các chị em là phần tử xinh đẹp của nhân loại. Vai trò của các chị em với tư cách là các chị em phụ nữ thì rất đặc biệt và độc đáo trong công việc của Chúa. Như Tiên Tri Joseph Smith đã nói, các chị em là những người nuôi dưỡng và chăm sóc mà có “tình cảm bác ái và nhân từ.”1

Tôi không biết lấy lời gì để bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn và ngưỡng mộ của tôi đối với các chị em là những người phụ nữ tuyệt vời. Các phụ nữ thuộc mọi lứa tuổi trong Giáo Hội này đã được ban cho một ân tứ thương xót đầy thiêng liêng chỉ dành cho phái nữ. Chúng tôi thấy khiêm nhường trước các hành động đầy đức tin, tận tụy, vâng lời và yêu thích phục vụ và tấm gương ngay chính của các chị em. Giáo Hội này không thể đạt được thành quả của nó nếu không có các phụ nữ tận tâm, trung tín là những người, trong sự ngay chính của họ, đã củng cố Giáo Hội rất nhiều. Trong thời xưa, các chị em phụ nữ của Giáo Hội đã đương đầu với những thử thách cũng gay go như của các chị em ngày nay. Những thử thách của các chị em khác với những thử thách của mẹ, bà và bà cố của các chị em nhưng chúng quả nhiên có thật.

Tôi vui mừng thấy các cơ hội cho các phụ nữ trong Giáo Hội và trên thế giới đang gia tăng. Chúng tôi hy vọng rằng các chị em sẽ nâng cao các cơ hội đang mở rộng này bằng cách mang đến cho chúng phong cách cao cả của phái nữ. Các cơ hội này thực sự vô hạn. Khi Tiên Tri Joseph thiết lập tổ chức này, ông “đã khởi đầu cho sự giải phóng phụ nữ,” và “phong trào này đã lan tràn trên khắp thế giới.”2 Kể từ sự khởi đầu này vào năm 1842, nhiều sự hiểu biết đã đến với thế gian và đến với các phụ nữ hơn hẳn sự hiểu biết đạt được trong suốt lịch sử thế gian.

Qua nhiều năm tháng, tổ chức vĩ đại này của phụ nữ đã tiến triển dưới sự soi dẫn, nhưng công việc cơ bản của Hội Phụ Nữ thì đã không thay đổi. Tiên Tri Joseph đã nói một cách súc tích rằng công việc của các chị em “không những an ủi người nghèo khó mà còn cứu vớt các linh hồn.”3

Tôi tin rằng bốn khái niệm quan trọng lâu dài của Hội Phụ Nữ này là:

Thứ nhất, nó là một hội phụ nữ được Thượng Đế thiết lập.

Thứ nhì, đó là một chỗ để học hỏi.

Thứ ba, đó là một tổ chức mà mục đích cơ bản của nó là phục vụ những người khác. Phương châm của nó là “Lòng bác ái không bao giờ hư mất.”

Thứ tư, đó là một nơi mà các phụ nữ có thể giao tiếp với nhau và thiết lập tình bằng hữu vĩnh cửu.4

Tôi hài lòng thấy rằng các em trẻ tuổi có cơ hội tham gia vào Hội Phụ Nữ khi lên mười tám. Các em sẽ được lợi ích nhiều với vai trò thành viên trong tổ chức quan trọng này. Cuộc sống của các em sẽ được ban phước khi các em sẵn lòng tham gia với các chị em trong sự phục vụ đầy trắc ẩn và trong sự chăm sóc những người đang trong cơn hoạn nạn. Chương trình giảng dạy của Hội Phụ Nữ đặt trọng tâm vào giáo lý cơ bản và sẽ cho các em cơ hội học hỏi phúc âm và gia tăng sự hiểu biết thuộc linh của các em. Chương trình giảng dạy này thích đáng cho tất cả nhân loại, không phải chỉ cho những người vợ và những người mẹ mà thôi. Tất cả các chị em phụ nữ, kể cả các em là những người phụ nữ trẻ tuổi, cần phải “được nhớ tới và được nuôi dưỡng bằng lời nói tốt lành của Thượng Đế.”5 Giáo lý sẽ củng cố các em và giúp các em phát triển cuộc sống thuộc linh cần thiết để khắc phục những thử thách của đời.

Một thiếu nữ trẻ rất thân với tôi đã đưa ra lời nhận xét sau đây: “Cháu lên 18 và là thành viên trẻ nhất của Hội Phụ Nữ trong tiểu giáo khu của cháu. Cháu thích đi đến Hội Phụ Nữ với mẹ và bà ngoại cháu bởi vì thật là điều thú vị để trải qua thời giờ với họ như là những người bạn. Cháu thích lắng nghe mẹ cháu nói chuyện với các bạn của bà bởi vì điều đó cho cháu cơ hội để quen biết các chị em phụ nữ cùng lứa tuổi với mẹ cháu. Có vài bà thích ôm cháu và hỏi cháu đang làm việc ở đâu và cháu làm gì mùa hè. Họ luôn làm cho cháu cảm thấy cháu là người quan trọng và đặc biệt đối với họ. Khi tiếp xúc với các bà ngoại, bà nội và các bà cố trong tiểu giáo khu của cháu, cháu đã phát triển tình bằng hữu mới và độc đáo mà làm phong phú và ban phước cho cuộc sống của mình. Cháu cũng thích các bài học mà các chị phụ nữ lớn tuổi hơn hướng dẫn. Họ đã sống ở nhiều nơi khác nhau và các kinh nghiệm cá nhân của họ đã cho cháu sự hiểu biết sâu sắc hơn về cách thức đối phó với những thử thách và những vấn đề của đời sống. Những câu chuyện họ chia sẻ từ cuộc sống của họ thật thú vị và giúp cháu liên tưởng đến bài học. Cháu đã bắt đầu nhận thức được rằng Hội Phụ Nữ quả thật dành cho tất cả các phụ nữ, bất luận tuổi tác của họ.”6

Bất luận trong hoàn cảnh nào mà các chị em trải qua, ảnh hưởng của các chị em có thể rất sâu rộng một cách kỳ diệu. Tôi tin rằng một số người trong các chị em có khuynh hướng đánh giá thấp khả năng sâu xa của mình đối với việc ban phước cho cuộc sống của những người khác. Thường nhất, các chị em làm điều đó không phải trên sân khấu trình diễn cho người ta thấy mà trong tấm gương ngay chính của các chị em và vô số hành động yêu thương dịu dàng và nhân từ đã được thực hiện một cách thật sẵn lòng, thường là trên căn bản cá nhân.

Mối quan tâm đặc biệt của Chúa đối với các góa phụ được tìm thấy rất nhiều trong thánh thư. Dĩ nhiên mối quan tâm này cũng nới rộng cho tất cả những người mẹ đơn chiếc. Họ có nhiều nhu cầu đè nặng trên vai họ. Họ phải cung cấp thức ăn và áo quần và những thứ cần dùng khác cho gia đình. Họ cũng cần phải nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương và chăm sóc nhiều hơn.

Tôi mới vừa nhận được một bức thư của người con trai của một chị phụ nữ nọ trong hoàn cảnh này và tôi xin trích dẫn một đoạn từ bức thư đó như sau: “Mẹ tôi đã có thể làm người nội trợ toàn thời gian khi chúng tôi còn nhỏ. Đây là nơi mà mẹ tôi muốn, nhưng cách đây khoảng 28 năm, với bốn đứa con tuổi từ 5 đến 14, mẹ tôi bắt buộc phải làm việc bên ngoài nhà ngõ hầu nuôi nấng chúng tôi khi mẹ bất ngờ trở thành đơn chiếc. Mặc dù chúng tôi biết đây không phải là một tình cảnh lý tưởng để nuôi dưỡng một gia đình, Mẹ đã chăm chỉ làm việc để tiếp tục nuôi dưỡng chúng tôi trong phúc âm và làm tròn tất cả mọi bổn phận trong gia đình trong khi làm việc toàn thời gian để có tiền nuôi chúng tôi. Chỉ bây giờ khi đã trở thành một người cha, được ban phước có được người vợ ở nhà trông nom con cái của chúng tôi, thì tôi mới bắt đầu hiểu thấu tình cảnh và những thử thách của Mẹ trong việc nuôi nấng chúng tôi vào lúc ấy. Thật là điều khó khăn và đầy thử thách và tôi mong ước rằng tôi đã làm được gì thêm để khiến cho mọi việc được dễ dàng hơn cho mẹ tôi. Tôi sẽ mãi mãi biết ơn sự hy sinh của mẹ tôi trong việc nêu gương bằng cách dạy dỗ chúng tôi cách thức làm việc và cách thức mà chúng tôi phải sống theo. Sự thông sáng của bản tuyên ngôn về gia đình thì đặc biệt đúng cho tôi bây giờ nhờ vào những kinh nghiệm mà chúng tôi đã chia sẻ với tư cách là một gia đình.”7

Nhiều chị em phụ nữ trung tín, ngay chính đã không có cơ hội kết hôn, tuy nhiên họ luôn là một phần quan trọng và thiết yếu của công việc thiêng liêng này. Những phụ nữ tuyệt vời này có một trách nhiệm riêng biệt như là các thiên sứ có lòng thương xót đối với cha mẹ, chị em, anh em, cháu trai, cháu gái, cũng như những người khác trong gia đình và bạn bè. Trong Giáo Hội, có biết bao cơ hội để yêu thương và chăm sóc. Các chị em phụ nữ độc thân, là những người có thể có nhiều thời giờ hơn, phục vụ một cách tuyệt vời.

Chị Margaret Anderson ở Centerville, Utah là một tấm gương tuyệt diệu về một chị phụ nữ độc thân mà đã sống một cuộc sống gương mẫu và trọn vẹn trong sự phục vụ những người khác. Trong nhiều năm, chị đã yêu thương chăm sóc cho người mẹ lớn tuổi của mình, người dì của mình và người chị tật nguyền của mình. Chị đã hướng dẫn và ảnh hưởng hằng trăm trẻ em với tư cách là một giảng viên trường tiểu học. Giờ đây về hưu, mỗi tuần chị tiếp tục tình nguyện giúp đỡ các trẻ em tập đọc. Các hành động phục vụ của chị đã là một phước lành đặc biệt đối với những tín hữu trong tiểu giáo khu của chị. Một chị phụ nữ trẻ nọ đã nhận xét: “Khi tôi còn nhỏ, mỗi năm Margaret đều làm cho tôi một cái bánh sinh nhật. Chị thường tô điểm mặt bánh với những thứ mà tôi nhận được trong các buổi sinh hoạt từ năm trước, chẳng hạn như khiêu vũ hay chơi đá banh.” Không một người truyền giáo nào rời khỏi tiểu giáo khu của chị mà không nhận được những cái ví bằng da do Margaret làm và tặng. Chị là một nguồn hiểu biết quý giá với tư cách là người nghiên cứu phúc âm, đặc biệt là trong Hội Phụ Nữ. Đối với những người láng giềng và bạn bè của chị, chị sẵn lòng đi làm việc lặt vặt cho họ và lái xe đưa họ đi đền thờ. Margaret là một người chủ tiệc tốt bụng. Chị làm kẹo rất ngon và họa những bức tranh xinh đẹp mà chị thích chia sẻ với những người khác. Chị thực sự đã ban phước cho cuộc sống của vô số người khác.

Các tiên tri của Chúa đã nhiều lần hứa rằng sẽ không có phước lành nào bị từ chối đối với các chị em độc thân ngay chính của Giáo Hội nếu, không phải lỗi của chính họ, họ không kết hôn trong đời này và làm lễ gắn bó với một người ngay chính nắm giữ chức tư tế. Họ sẽ có thể nhận hưởng phước lành đó mãi mãi trong thế giới mai sau. “Thỉnh thoảng khi các chị em khát khao được sự chấp nhận và tình cảm thuộc vào cuộc sống gia đình trên thế gian, thì xin hãy hiểu rằng Cha Thiên Thượng của chúng ta biết được nỗi đau khổ của các chị em, và một ngày nào đó Ngài sẽ ban phước cho các chị em vượt ngoài khả năng bày tỏ của các chị em.”8

Tiếp theo lễ cung hiến ngôi đền thờ tráng lệ và mới mẻ ở Nauvoo, chúng tôi lên phi cơ trở về nhà cùng với Chị Parkin, Chị Hughes, Chị Pingree và các người chồng cao quý của họ. Tôi đã hỏi các chị ấy có đến Red Brick Store ở Nauvoo nơi mà Tiên Tri Joseph đã thiết lập Hội Phụ Nữ vào ngày 17 tháng Ba năm 1842 với chỉ có 20 thành viên hiện diện không. Chị Parkin trả lời là họ đã có đi.

Trong khi tôi nói chuyện cùng họ, tôi đã được nhắc nhở một cách mãnh liệt rằng tất cả các chị em phụ nữ ở bất cứ nơi đâu trên thế gian đều có thể thừa hưởng và được lợi ích từ các phước lành của Chúa dành cho các phụ nữ. Tiên Joseph Smith đã nói: “Giờ đây tôi giao chìa khóa cho các chị em trong tôn danh của Thượng Đế… kiến thức và sự hiểu biết sẽ trút xuống kể từ lúc này.”9 Phước lành này về kiến thức và sự hiểu biết đến với tất cả các phụ nữ ngay chính trong Giáo Hội, bất luận chủng tộc hay quốc tịch nào, và bất kể họ là người mới trong Giáo Hội hay là con cháu của một trong 20 thành viên đầu tiên ở Nauvoo vào năm 1842. Các phước lành này trút xuống những phụ nữ đó là những người sẵn lòng thực hiện công việc của các thiên sứ.

Gần đây, tôi có nghe Anh Cả Dieter Uchtdorf đưa ra lời phát biểu sâu sắc sau đây: “Không có một người nào thuộc dòng dõi nhà tôi đến từ Nauvoo. Tôi không thể tìm thấy dòng dõi của mình từ những người tiền phong. Nhưng giống như đại đa số các tín hữu Giáo Hội ở khắp thế giới, tôi có thể hết lòng thông cảm với các Thánh Hữu ở Nauvoo và cuộc hành trình của họ đến Si Ôn. Nỗ lực liên tục tạo ra con đường tín ngưỡng của tôi để đến Si Ôn của ‘tấm lòng thanh khiết’ khiến tôi cảm thấy gần gũi với những người tiền phong của thế kỷ mười chín. Họ là tổ tiên thuộc linh của tôi, cũng như đối với mỗi một tín hữu của Giáo Hội, bất luận quốc tịch, ngôn ngữ hay văn hóa nào. Họ đã thiết lập không những một nơi chốn an toàn ở miền tây mà còn là nền tảng thuộc linh cho việc xây đắp vương quốc trong tất cả các dân tộc của thế gian.”

Giờ đây, tôi xin có một lời đối với các chị em đã lập gia đình. Trong một cách thức thật quan trọng, các chị em làm nhà mình thành một nơi trú ẩn đầy bình an và hạnh phúc trong một thế giới hỗn loạn. Một người chồng ngay chính là người mang chức tư tế, mà chức tư tế đó là thẩm quyền điều hành mái gia đình. Nhưng người chồng không phải là chức tư tế; người chồng là người nắm giữ chức tư tế.10 Người vợ chia sẻ các phước lành của chức tư tế với người chồng. Người chồng không quan trọng trong bất cứ phương diện nào hơn vị trí thiêng liêng của người vợ mình. Trong Buổi Họp Chức Tư Tế Trung Ương tháng Tư vừa qua, Chủ Tịch Gordon B. Hinckley đã nói: “Trong mối liên hệ hôn nhân, không có vị trí thấp cũng chẳng có vị trí cao. Người nữ không bước đi trước người nam; người nam cũng chẳng bước đi trước người nữ. Họ bước đi bên cạnh nhau với tư cách là người con trai và người con gái của Thượng Đế trong cuộc hành trình vĩnh cửu.”

Ông nói tiếp: “Tôi chắc chắn rằng khi chúng ta đứng trước rào phán xét của Thượng Đế, thì mức độ giàu có mà chúng ta tích lũy trong đời hay những vinh dự nào mà chúng ta đã có thể đạt được thì sẽ ít được đề cập đến. Nhưng sẽ có những câu hỏi thăm dò liên quan đến mối liên hệ trong gia đình chúng ta. Và tôi đoan chắc rằng chỉ những người sống với tình yêu thương và sự kính trọng và lòng biết ơn những người bạn đời và con cái của họ mới nhận được từ Đấng phán xét vĩnh cửu của chúng ta những lời này: “‘Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi.’”11

Những người vợ tán trợ chồng mình trong các giám trợ đoàn, chủ tịch đoàn giáo khu và các sự kêu gọi khác của chức tư tế là một phước lành lớn lao cho Giáo Hội. Họ phục vụ một cách âm thầm, thầm lặng nhưng hữu hiệu, chăm sóc gia đình và nhà cửa trong khi chồng của họ đang phục sự cho các Thánh Hữu. Tôi nói “thầm lặng.” Tôi đã nghe nói rằng một số phụ nữ thích một người đàn ông mạnh mẽ im lặng—họ nghĩ rằng người ấy đang lắng tai nghe!

Không một ai biết nhiều hơn tôi sức mạnh của một người vợ đầy thông cảm thì như thế nào. Kể từ khi chúng tôi kết hôn, Ruth của tôi đã tán trợ và khuyến khích tôi trong nhiều sự kêu gọi mà tôi có gần sáu mươi năm nay. Tôi không thể phục vụ được dù một ngày nếu không có sự ủng hộ đầy yêu thương của vợ tôi. Tôi biết ơn vợ tôi rất nhiều và yêu vợ tôi tha thiết.

Người vợ góa bụa của một trong những người bạn truyền giáo của tôi, Chị Effie Dean Bowman Rich, rất bận rộn với gia đình chị và với hai cơ sở kinh doanh. Ngoài ra, chị còn là một người mẹ, bà ngoại và bà cố của một đại gia đình. Cách đây một thời gian, khi chị đang vất vả đáp ứng những đòi hỏi của nhiều vai trò phức tạp này, chị nói: “Điều tôi cần là một người vợ!” Dĩ nhiên, chị có ý nói rằng chị cảm thấy cần sự ủng hộ từ một người nào đó mà sẽ đảm trách vô số tiểu tiết mà chỉ có người vợ ngay chính biết lo lắng mới có thể làm được một cách thành công.

Thưa các chị em, bất luận hoàn cảnh của các chị em ra sao đi nữa, các chị em đều cần phải có dầu trong đèn của mình. Điều này có nghĩa là phải chuẩn bị sẵn sàng. Chúng ta đều nhớ đến chuyện ngụ ngôn về Mười Nàng Trinh Nữ đã được mời đến dự tiệc cưới tối. Năm nàng khôn và chuẩn bị sẵn sàng, với dầu trong đèn của họ để gặp Chàng Rể; năm nàng kia thì không được như thế. Cả mười nàng đều chăm sóc đèn của mình, nhưng năm nàng đã không mang theo đủ dầu với họ và bị hết dầu. Chúng ta đều cần ánh sáng của đèn mình để đưa chúng ta ra khỏi bóng tối. Chúng ta đều muốn gặp Chàng Rể và dự bữa tiệc cưới.

Cách đây một vài năm, Chủ Tịch Spencer W. Kimball đã làm sáng tỏ thảm kịch của sự không chuẩn bị này. Ông nói năm nàng trinh nữ dại trong chuyện ngụ ngôn “đã được giảng dạy. Họ đã được cảnh cáo trong suốt cuộc sống của họ.” Trong một ngày mà dường như cả người khôn lẫn người dại đều giống nhau, thì “vào lúc tăm tối nhất, lúc ít mong chờ nhất, chàng rể đến.” Năm nàng mà có đèn đã hết dầu vội vã chạy đi mua số dầu cần thiết, nhưng vào lúc họ đến phòng tiệc thì cửa đã đóng. Đã quá trễ.

Chủ Tịch Kimball đã giải thích rằng “Những nàng dại đã hỏi xin những nàng khác chia sẻ số dầu của họ, nhưng sự chuẩn bị phần thuộc linh thì không thể chia sẻ được trong một chốc lát. Những nàng khôn phải đi, nếu không thì chàng rể sẽ rời đi mà không được các nàng dâu chào đón. Họ cần tất cả số dầu cho bản thân họ; họ không thể giúp những nàng dại.”

Ông nói tiếp: “Trong chuyện ngụ ngôn [này], dầu có thể mua tại chợ. Trong cuộc sống của chúng ta, số dầu của sự chuẩn bị được tích lũy dần dần từng giọt một trong lối sống ngay chính. Việc tham dự các buổi lễ Tiệc Thánh thêm dầu vào đèn của chúng ta, từng giọt một qua nhiều năm tháng. Việc nhịn ăn, cầu nguyện chung gia đình, giảng dạy tại gia, kiềm chế những ham muốn của thể xác, rao giảng phúc âm, học hỏi thánh thư—mỗi một hành động hiến dâng và vâng lời là một giọt dầu thêm vào kho dự trữ của chúng ta. Các hành động nhân từ, đóng góp các của lễ và tiền thập phân, những ý nghĩ và hành động trinh khiết, kết hôn trong giao ước cho thời vĩnh cửu—những điều này cũng góp phần quan trọng vào số dầu mà chúng ta có thể châm thêm cho đèn cạn dầu của mình vào lúc nửa đêm.”12

Thưa các chị em, điều quan trọng là các chị em có dầu trong đèn của mình ngõ hầu khi các chị em thưa cùng Chúa “Con đây, xin phái con đi,” thì các chị em đã sẵn sàng và hội đủ điều kiện để được phái đi. Chúng ta đều được Thượng Đế gửi đến đây, nhưng những gì chúng ta có thể hoàn thành trong công việc của Chúa phần nhiều còn tùy thuộc vào sự sẵn lòng và khả năng của mình.

Chứng ngôn của tôi, dựa trên 59 năm sống cuộc sống gia đình, là sự tham gia của Ruth của tôi vào Hội Phụ Nữ đã mang đến cuộc sống thuộc linh dồi dào và sự hòa thuận trong mái gia đình của chúng tôi. Tổ chức này được soi dẫn bởi Thượng Đế đã ban phước không những cho cuộc sống của vợ tôi, mà còn cho cuộc sống của mỗi người trong gia đình của chúng tôi. Sự tham gia vào Hội Phụ Nữ có thể giúp các chị em đổ đầy dầu vào đèn của mình. Nó có thể cung ứng cho các chị em sự kiên quyết và sức chịu đựng mà các chị em sẽ cần khi các chị em trải qua những cơn bão tố của đời và cuộc hành trình trên trần thế.

Trong cuộc họp báo đầu tiên được tổ chức sau khi Chủ Tịch Hinckley được sắc phong và phong nhiệm là Chủ Tịch của Giáo Hội, một phụ nữ đã yêu cầu Chủ Tịch bình luận về thử thách của những người mẹ mà phải đi làm và cũng cân bằng nhiều nhu cầu khác của nhà cửa và gia đình họ. Chủ Tịch Hinckley đã trả lời: “Hãy làm hết khả năng mà các chị em có thể làm, và hãy nhớ rằng của cải quý giá nhất mà các chị em có trên thế gian này là những đứa con mà các chị em đã mang vào thế gian, và các chị em có trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm sóc.”13 Đêm nay, tôi xin lặp lại điều đó. Hãy làm hết khả năng mà các chị em có thể làm để giúp tất cả chúng ta vươn cao hơn và làm tốt hơn. Hãy sử dụng các ân tứ thuộc linh tự nhiên của các chị em để ban phước lành. Hãy giúp chúng tôi khắc phục các ảnh hưởng nguy hại của thế gian trong cuộc sống của chúng ta, mái gia đình của chúng ta và trong Giáo Hội.

Cầu xin cho lời hứa của Nê Phi được ứng nghiệm vì lợi ích của các chị em: “Và họ được trang bị bằng sự ngay chính và bằng quyền năng của Thượng Đế trong vinh quang vĩ đại.”14 Tôi muốn chia sẻ chứng ngôn về các phước lành đã đến với cuộc sống của tôi từ tình yêu thương của người vợ của tôi tên Ruth, người mẹ của tôi có đức tính giống Đấng Ky Tô, các bà ngoại và bà nội thánh thiện của tôi, các con gái và các cháu gái của chúng tôi và nhiều phụ nữ ngay chính khác. Tôi làm như vậy trong tôn danh của Chúa Giê Su Ky Tô, A Men.

Ghi Chú

  1. Teachings of the Prophet Joseph Smith, do Joseph Fielding Smith tuyển chọn (1976), 226.

  2. George Albert Smith, Relief Society Magazine, tháng Mười Hai năm 1945, 717; xin xem thêm History of the Church, 4:607.

  3. History of the Church, 5:25.

  4. Xin xem GLGƯ 130:2.

  5. Mô Rô Ni 6:4.

  6. Bức thư riêng.

  7. Bức thư riêng của Brad Allen.

  8. Spencer W. Kimball, “The Role of Righteous Women,” Ensign, tháng Mười Một năm 1979, 103.

  9. Biên bản của Hội Phụ Nữ ở Nauvoo, ngày 28 tháng Tư năm 1842.

  10. Xin xem GLGƯ 121:37; Hyrum M. Smith và Janne M. Sjodahl, The Doctrine and Covenants Commentary, hiệu đính xuất bản (1951), 759.

  11. “Personal Worthiness to Exercise the Priesthood,” Liahona, tháng Bảy năm 2002, 60.

  12. Faith Precedes the Miracle (1972), 255õ56.

  13. Phần thâu băng và thâu hình buổi họp báo, ngày 13 tháng Ba năm 1995, với nhã ý của Sở Ngoại Vụ, Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau của Chúa Giê Su Ky Tô.

  14. 1 Nê Phi 14:14.