2007
CHỦ TỊCH JAMES E. FAUST
Tháng Mười năm 2007


Thương Tiếc: Phụ Trang Liahona

CHỦ TỊCH JAMES E. FAUST

Người Chăn Chiên Thân Quý

NGÀY 31 THÁNG BẢY NĂM 1920—NGÀY 10 THÁNG TÁM NĂM 2007

Hình Ảnh

James E. Faust luôn luôn nhớ đến tiếng kêu của con cừu con đầy sợ hãi của ông. Khi còn nhỏ, có một đêm ông đã quên bỏ con vật cưng của mình vào chuồng khi cơn bão đến.

Ông thuật lại trong một phiên họp chức tư tế của đại hội trung ương: “Tôi biết rằng tôi cần phải giúp đỡ con vật cưng của tôi, nhưng tôi muốn được an toàn, ấm áp và khô ráo trong giường. Đáng lẽ tôi đã phải ngồi dậy nhưng tôi đã không làm. Buổi sáng hôm sau, tôi đi ra ngoài và thấy con cừu con của mình đã chết. Con chó cũng đã nghe tiếng kêu của nó và đã giết chết nó.”

Ông nói: “Lòng tôi đau khổ vô cùng.” Ông nhận biết rằng ông không phải là một người chăn chiên tốt. Lời khiển trách dịu dàng của cha ông càng làm ông đau lòng hơn: “Con à, cha không thể giao phó cho con việc trông nom chỉ một con cừu con được sao?”1

Ngày đó James đã quyết tâm rằng ông sẽ cố gắng hết sức để không bao giờ xao lãng bổn phận trông nom chăm sóc của mình nếu ông có được cơ hội một lần nữa để làm người chăm chiên. Là một người truyền giáo toàn thời gian ở Ba Tây, một người chồng và người cha đầy tận tâm, người luật sư thành công, người lãnh tụ chính trị, thành viên thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, và Đệ Nhị Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn, ông luôn luôn nhớ đến quyết tâm đó của mình. Đến cuối giáo vụ của mình, kết thúc vào ngày 10 tháng Tám năm 2007, khi ông từ trần vì tuổi già, Chủ Tịch Faust vẫn tận tâm với lời khuyên dạy của Chúa: “Hãy chăn những chiên con ta” (Giăng 21:15).

Gia Đình và Đức Tin

James Esdras Faust sinh ở Delta, Utah, vào ngày 31 tháng Bảy năm 1920, là một trong số năm người con trai của Ông George A. và Bà Amy Finlinson Faust. Sau đó gia đình dọn về Thành Phố Salt Lake, nơi mà George làm việc với tư cách là một luật sư và thẩm phán tòa án địa phương. Khi sống ở nhà và ở nông trại của ông bà nội của ông ở miền trung Utah, thiếu niên James vui hưởng tình yêu thương và sự hỗ trợ của một gia đình đặt trọng tâm vào Đấng Ky Tô và trau dồi đức tính lương thiện, làm việc siêng năng và phục vụ.

Ông nói: “Không một người nào có người cha tốt hơn tôi.”2 Ông kể về mẹ ông: “Mẹ tôi là một phụ nữ có phần thuộc linh rất cao, một phụ nữ thánh thiện đã nêu gương một cuộc sống giống như Đấng Ky Tô.”3

Khi lớn lên, Chủ Tịch Faust cố gắng kính trọng và bắt chước sống theo cha mẹ mình, bằng cách luôn luôn dành ưu tiên cho gia đình và Giáo Hội. Ông dạy: “Không có trách nhiệm nào lớn hơn việc làm một người chồng và người cha.”4 Ông tuyên bố về Giáo Hội và sứ mệnh của Giáo Hội: “Không có gì trên thế gian này có thể sánh được với công việc này.”5

Sau khi học xong trung học, nơi mà ông xuất sắc về môn chơi bóng bầu dục và chạy đua, ông được kêu gọi đi phục vụ ở Phái Bộ Truyền Giáo Brazil (Ba Tây) từ năm 1939 đến năm 1942. Trong khi ở Ba Tây, tình yêu thương của ông đối với con cái của Thượng Đế và sự an lạc của họ được nẩy nở. Ông nói: “Tôi sinh ra với tính không phân biệt chủng tộc. Tôi đã học cách yêu thương tất cả những người trong các quốc gia mà tôi từng là người truyền giáo, người lính, hoặc Vị Thẩm Quyền Trung Ương, bất kể màu da của họ. Tôi hy vọng sẽ là một môn đồ … nhất là cho người hèn mọn, người bị áp bức, người nghèo khó, người khổ sở, người túng thiếu và người có tinh thần khốn khó. Tôi thấy rằng nếu bỏ quên những người này thì chúng ta không thể nào là các môn đồ [của Chúa] được.”6

Sáu tuần sau khi trở về từ công việc truyền giáo, Chủ Tịch Faust gia nhập U.S. Army Air Corps (bây giờ là Không Quân). Trong khi được nghỉ phép vào năm 1943, ông kết hôn với Ruth Wright, người mà ông đã quen biết từ thời trung học, trong Đền Thờ Salt Lake. Trong khi ở xa trong Đệ Nhị Thế Chiến, ông đều viết thư cho bà mỗi ngày.7 Anh Cả Joseph B. Wirthlin thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sự Đồ đã nói về mối tình của Ông Bà Faust: “Mối tình của họ là tấm gương đích thực về một cuộc hôn nhân tuyệt vời.”8

Lòng tận tâm vô bờ bến của ông đối với Ruth và 5 người con, 25 đứa cháu, và 27 cháu kêu bằng cố của họ và sự hỗ trợ liên tục của bà đối với ông rất hiển nhiên đối với những người quen biết họ.

Ông đã nói sau khi được kêu gọi làm Người Phụ Tá cho Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ vào năm 1972: “Tôi hết lòng mong muốn con cái của tôi biết rằng tôi không thể thành công trong sự kêu gọi này trừ phi tôi cũng thành công với tư cách là cha của chúng, và rằng chúng luôn luôn là quan trọng nhất trong đời tôi.”9 Sáu năm sau đó, khi ông được tán trợ vào Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, ý nghĩ đầu tiên đến với ông là tìm đến Ruth,10 là người mà ông đã nói rằng“chính là phần lớn của bản thân tôi cũng như của con tim và linh hồn tôi.”11

Một Sự Hướng Dẫn Đạo Đức

Chẳng bao lâu sau khi xin vào trường học làm sĩ quan vào năm 1942, Chủ Tịch Faust được mời trình diện trước một hội đồng thẩm vấn. Hầu như tất cả các câu hỏi mà hội đồng đó đặt ra cho ông đều tập trung vào các tiêu chuẩn và tín ngưỡng của ông. Ông có hút thuốc không? Ông có uống rượu không? Ông có cầu nguyện không? Mặc dù sợ làm mất lòng nhưng Chủ Tịch Faust đã trả lời mỗi câu hỏi một cách rõ ràng. Rồi ông được hỏi là chuẩn mực đạo đức có nên được uyển chuyển trong thời chiến không.

Ông nói: “Tôi nhận biết rằng có lẽ lúc đấy là cơ hội để giải thích cặn kẽ một vài điểm và có tư tưởng khoáng đạt. Tôi cảm thấy rằng những người đang đặt ra câu hỏi này cho tôi đều không sống theo các tiêu chuẩn đạo đức mà tôi đã được giảng dạy. Ý nghĩ lóe lên trong tâm trí tôi rằng có lẽ tôi có thể nói rằng tôi có tín ngưỡng riêng của mình, nhưng tôi không muốn áp đặt tín ngưỡng của mình lên trên những người khác. Nhưng dường như hiện ra trong trí tôi gương mặt của nhiều người mà tôi đã giảng dạy về luật trinh khiết khi còn là người truyền giáo. Cuối cùng tôi chỉ nói: ‘Tôi không tin có hai tiêu chuẩn đạo đức.’”12

Ông rất lấy làm ngạc nhiên khi ông đậu cuộc thẩm vấn và được chọn vào trường học làm sĩ quan.

Ông đã nói tại đại hội trung ương cuối cùng mà ông tham dự: “Trong suốt bao nhiêu năm của đời mình, tôi đã cố gắng không giấu giếm mình là ai và điều tôi tin. Tôi không thể nhớ một trường hợp nào khi việc thừa nhận một cách khiêm nhường rằng tôi là tín hữu của Giáo Hội này lại ảnh hưởng đến nghề nghiệp của tôi hay khiến tôi mất đi những người bạn quý của mình.”13

Tính lương thiện, mà Chủ Tịch Faust gọi là “một sự hướng dẫn đạo đức,” đã phục vụ ông một cách hữu hiệu trong 24 năm hành nghề luật sư. Tính liêm khiết của ông—cùng với sự nổi tiếng về tính thẳng thắn công bằng, chọn quyết định khôn ngoan, và chứng tỏ lòng trắc ẩn và mối quan tâm đến những người khác—làm cho ông khác hẳn với các đồng nghiệp của ông và đưa đến những cơ hội trong nghề nghiệp, dân chính và cộng đồng. Ông đã phục vụ trong cơ quan lập pháp Utah từ năm 1949 đến năm 1951, với tư cách là chủ tịch Utah Bar Association (Hội Luật Gia Utah) từ năm 1962 đến năm 1963, thuộc vào Hội Đồng Luật Sư về Quyền Tự Do Cá Nhân và Sự Xung Đột Chủng Tộc của tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy’s Lawyers, và là một thành viên thuộc Hội Đồng Duyệt Xét Hiến Pháp Utah.

Sự phối hợp độc nhất về tính thấu cảm và khả năng của Chủ Tịch Faust cũng đã giúp ông phục vụ hữu hiệu với tư cách là giám trợ, cố vấn thượng phẩm, chủ tịch giáo khu, đại diện giáo vùng, Phụ Tá Nhóm Túc Số Mười Hai, Thầy Bảy Mươi và Sứ Đồ. Anh Cả Neal A. Maxwell (1926–2004) thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ đã nhận xét: “Trong mỗi một sự kêu gọi này, ông đều cho thấy rằng một người lãnh đạo giỏi thì luôn luôn là một người biết lắng nghe.”14

Xây Đắp Nhịp Cầu

Mặc dù rất khiêm tốn, không kể công và nhanh chóng khen ngợi và dành công cho người khác, Chủ Tịch Faust đã thực hiện nhiều sự đóng góp đáng kể cho Giáo Hội trong suốt nhiều thập niên phục vụ. Với tư cách là thành viên của Ủy Ban Ngoại Vụ của Giáo Hội, ông đã sử dụng kiến thức chuyên môn về luật của mình trong vài vấn đề chính trị liên quan đến đạo đức, kể cả trò chơi cá ngựa đã được đề nghị ở Utah. Ông cũng bênh vực việc thay đổi biểu trưng của Giáo Hội để chú trọng đến Chúa Giê Su Ky Tô. Ngoài ra, ông đã giúp hướng dẫn quyết định của Giáo Hội để giữ lại những dịch vụ của một công ty giao tế nhân sự toàn cầu mà đã giúp Giáo Hội phổ biến sứ điệp, sửa đổi những quan niệm sai lầm và cải tiến mối giao tế của Giáo Hội với giới truyền thông.

Ông cũng cố gắng xây đắp nhịp cầu với các tín hữu và các vị lãnh đạo của các tín ngưỡng khác. Trong những nỗ lực đó, ông không dễ bị phật lòng nhưng rất nhanh chóng cho thấy lòng kiên nhẫn, tử tế và sự thông cảm.

Tại một buổi lễ trong cộng đồng mà ông và Chị Faust tham dự, một người lãnh đạo của tín ngưỡng khác đã chỉ trích Giáo Hội. Chị Faust kể lại: “Tôi cảm thấy càng tức giận hơn trong khi người ấy tiếp tục nói, nhưng Jim thì kiên nhẫn lắng nghe. Sau đó, anh ấy đi đến gần người đó và nói: ‘Được rồi, Mục Sư, nếu Mục Sư nghĩ theo lối đó thì chúng tôi đã làm một điều gì sai rồi. Tôi muốn chúng ta cùng ăn trưa để Mục Sư có thể cho tôi biết về những mối quan tâm của Mục Sư.’ Và họ đã ăn trưa với nhau và cả hai đã trở thành bạn tốt kể từ lúc ấy.”15

Vào thập niên 1980, Chủ Tịch Faust làm việc thân cận với Chủ Tịch Howard W. Hunter (1907–95), lúc bấy giờ thuộc Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ, và Anh Cả Jeffrey R. Holland, lúc bấy giờ là chủ tịch trường Brigham Young University, để biến chương trình của họ về Jerusalem Center for Near Eastern Studies (Trung Tâm BYU ở Jerusalem cho Việc Nghiên Cứu Cận Đông) trở thành hiện thực. Chủ Tịch Faust và Chủ Tịch Hunter đã vất vả trong suốt những lần thương lượng đầy khó khăn và sự chống đối dai dẳng trong việc thuê đất theo hợp đồng và trông nom việc xây cất trung tâm đó.

Một nhân chứng cho tiến trình đó đã nói: “Anh Cả Faust đích thực là một người hòa nhã điềm tĩnh, luôn luôn tìm cách để trấn an những người bạn Do Thái thường bị khích động của chúng tôi là những người tìm cách để chấm dứt sự có mặt của chúng tôi ở Jerusalem, hoặc làm dịu đi những cơn sóng gió nơi Các Thánh Hữu Ngày Sau ở Jerusalem là những người đôi khi bị phật lòng vì sự chống đối.”16

Dang Tay Giúp Đỡ

Cho dù đang lao nhọc ở Ba Tây với tư cách là Giám Sát Viên Giáo Vùng cho Nam Mỹ từ năm 1975 đến năm 1977, hay đang chủ tọa Phái Bộ Truyền Giáo Quốc Tế vào năm 1977 với tư cách là thành viên của Chủ Tịch Đoàn thuộc Đệ Nhất Nhóm Túc Số Thầy Bảy Mươi, hoặc đang phục sự cho các tín hữu Giáo Hội với tư cách là một Sứ Đồ kể từ năm 1978, hay đang phục vụ với tư cách là Đệ Nhị Cố Vấn cho Chủ Tịch Gordon B. Hinckley kể từ năm 1995, thì Chủ Tịch Faust vẫn luôn luôn cố gắng dang tay giúp đỡ trong một tinh thần nhân từ và yêu thương.

Những bài nói chuyện của ông tại đại hội thường phản ảnh hai giáo lệnh lớn của Đấng Cứu Rỗi: yêu thương và phục vụ Thượng Đế cùng yêu thương và phục vụ con cái của Ngài. Với lòng nhiệt tình, tài dí dỏm và sự khôn ngoan, Chủ Tịch Faust mang đến ân huệ của một người ông cho bục giảng, ban phước cho cuộc sống của tất cả những người nghe lời chứng của ông và lưu tâm đến lời khuyên dạy của ông.

Ông nói: “Chính nghĩa lớn nhất trên thế gian [là] sự cứu rỗi của mỗi người con của Đức Chúa Cha.17 Thành quả lớn lao nhất trong đời phát sinh từ việc phục vụ những người khác.”18

Trong Sứ Điệp của Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn vào tháng Tám năm 2007, Chủ Tịch Faust đã nói rằng ông hy vọng sẽ “mang đến các cơ hội phát triển và hạnh phúc cho tất cả các tín hữu, dù đã lập gia đình hay còn độc thân.” Khi nhắc đến chuyện ngụ ngôn về người chăn lành, ông đã nói thêm: “Việc tìm kiếm những người cần sự giúp đỡ của chúng ta gồm có việc tìm đến họ trong nhiều cách thức.”19

Trong bài nói chuyện tại đại hội trung ương cuối cùng của ông, ông đã làm chứng về quyền năng chữa lành của sự tha thứ. Ông nói: “Đối với tất cả chúng ta là những người tha thứ cho ‘những ai xúc phạm đến mình’ [Bản Dịch Joseph Smith, Ma Thi Ơ 6:13], ngay cả những người phạm vào tội nghiêm trọng, thì Sự Chuộc Tội sẽ mang đến một mức độ bình an và an ủi. Chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta cần phải tha thứ để được tha thứ… . Tôi hết lòng và hết tâm hồn tin nơi quyền năng chữa lành mà có thể đến với chúng ta khi chúng ta tuân theo lời khuyên dạy của Đấng Cứu Rỗi ‘để tha thứ cho mọi người’ [GLGƯ 64:10].”20

Chứng Ngôn

Trong thời gian giáo vụ của mình, Chủ Tịch Faust thường chia sẻ chứng ngôn về Sách Mặc Môn, Sự Phục Hồi, Tiên Tri Joseph Smith, và các chìa khóa và thẩm quyền nắm giữ bởi Các Vị Chủ Tịch của Giáo Hội. Ông nói: “Chính là tiếng nói của Chủ Tịch Hinckley mà chúng ta cần phải nghe ngày nay, lời khuyên dạy của ông mà chúng ta cần phải tuân theo ngõ hầu những điều tốt đẹp nhất có thể đến với chúng ta.”21

Chủ Tịch Faust cũng chia sẻ một chứng ngôn tha thiết về Đấng Cứu Rỗi, khi viết lời cho bài ca “This Is the Christ” (Đây Là Đấng Ky Tô) và làm chứng rằng: “Những người trong chúng ta đang nắm giữ vai trò sứ đồ thánh thì luôn luôn mong muốn làm tròn trách nhiệm của mình bằng cách làm chứng về thiên tính của Đấng Cứu Rỗi. Tôi cảm thấy cần phải làm như vậy. Tôi đã có được một chứng ngôn trong suốt đời mình. Tuy nhiên, gần đây, có một sự làm chứng mãnh liệt đến với tâm hồn tôi về sự thiêng liêng của công việc thánh này. Sự làm chứng chắc chắn này thì đích xác hơn bao giờ hết trong đời tôi.”22

Chủ Tịch Faust không bao giờ quên con cừu con đầy sợ hãi trong thời niên thiếu của ông. Và ông không bao giờ quên quyết tâm của ông khi là người được giao phó cho trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội. Bằng nỗ lực bắt chước theo Đấng Chăn Lành, là Đấng mà ông đã có được một chứng ngôn “không thể lay chuyển”23, ông đã có một cuộc sống mà đã phản ảnh lời giảng dạy hay nhất của ông—lời giảng dạy của một người chăn chiên thân quý .

CÁC SỰ KIỆN QUAN TRỌNG TRONG CUỘC SỐNG CỦA CHỦ TỊCH JAMES E. FAUST

Ngày 31 tháng Bảy năm 1920

Ra đời tại Delta, Utah, con của Ông George A. và Bà Amy Finlinson Faust

193739

Theo học trường University of Utah ở Thành Phố Salt Lake

193942

Phục vụ truyền giáo ở Ba Tây

Ngày 21 tháng Tư năm 1943

Kết hôn với Ruth Wright trong Đền Thờ Salt Lake

194245

Phục vụ trong Đệ Nhị Thế Chiến trong U.S. Army Air Corps (Không Quân Hoa Kỳ), được giải ngũ trong danh dự với cấp bậc trung úy

1948

Tốt nghiệp trường University of Utah với bằng cử nhân và bằng Luật; bắt đầu hành nghề luật sư ở Thành Phố Salt Lake

Ngày 8 tháng Năm năm 1949

Được tán trợ làm giám trợ của Tiểu Giáo Khu Big Cottonwood

194951

Phục vụ trong Quốc Hội Utah

Ngày 18 tháng Ba năm 1956

Được tán trợ làm chủ tịch Giáo Khu Cottonwood

Ngày 31 tháng Năm năm 1962

Được đắc cử làm chủ tịch Utah State Bar (Hội Luật Gia Utah)

1962

Được tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bổ nhiệm vào Lawyers’ Committee for Civil Rights and Racial Unrest (Hội Đồng Luật Sư về Quyền Tự Do Cá Nhân và Sự Xung Đột Chủng Tộc)

Ngày 14 tháng Mười Hai năm 1968

Được kêu gọi làm người đại diện giáo vùng

Tháng Giêng năm 1970

Được bổ nhiệm vào hội đồng giám đốc của Deseret News

Ngày 6 tháng Mười năm 1972

Được tán trợ làm Phụ Tá cho Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ

Ngày 1 tháng Mười năm 1976

Được tán trợ vào Chủ Tịch Đoàn của Đệ Nhất Nhóm Túc Số Thầy Bảy Mươi

Tháng Sáu năm 1977

Được kêu gọi làm chủ tọa Phái Bộ Truyền Giáo Quốc Tế

Ngày 30 tháng Chín năm 1978

Được tán trợ vào Nhóm Túc Số Mười Hai Vị Sứ Đồ

Ngày 12 tháng Ba năm 1995

Được phong nhiệm với tư cách là Đệ Nhị Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn

Ngày 27 tháng Tư năm 1998

Nhận giải thưởng công dân quốc gia Ba Tây—một vinh dự mà chỉ có một vài người lãnh đạo trên thế giới nhận được

2000

Làm lễ cung hiến bảy đền thờ: Oaxaca Mexico, Tuxtla Gutiérrez Mexico, Medford Oregon, Memphis Tennessee, Nashville Tennessee, San José Costa Rica, và Oklahoma City Oklahoma

Ngày 10 tháng Tám năm 2007

Từ trần ở Thành Phố Salt Lake, Utah, thọ 87 tuổi

LỜI TUYÊN DƯƠNG TỪ ĐỆ NHẤT CHỦ TỊCH ĐOÀN

“Sự khôn ngoan của ông thật sâu xa và uyên thâm từ kinh nghiệm lâu dài trong nhiều lĩnh vực học hỏi mà ra. Ông mang theo mình đầu óc của một luật sư và lòng trắc ẩn của một vị lãnh đạo Giáo Hội… . Đức tin của ông nơi lẽ thật về phúc âm phục hồi đều không nao núng. Không có sự ngờ vực trong tâm trí của ông về lời kêu gọi làm tiên tri của Joseph Smith. Ông không nghi ngờ về giá trị của Sách Mặc Môn… .

“Ông đã từ trần trong sự bình an, tình yêu thương và ánh sáng. Xin được tưởng nhớ trong bình an. Tất cả chúng tôi đều được tốt hơn nhờ kết giao với ông.”

Chủ Tịch Gordon B. Hinckley

“Ông là một người đầy kinh nghiệm, một người đầy khôn ngoan, một người đầy tình thương. Ông là một người đầy đức tin, một người luôn cầu nguyện, nhưng trên hết ông là người của Thượng Đế. Không có một khuyết điểm nào nơi ông; không có một thủ đoạn nào nơi tâm hồn ông; không có một thói xấu nào trong cá tính của ông.

“Chủ Tịch Faust hết lòng và hết linh hồn yêu thương Chúa và hết sức phục vụ Ngài cho đến cuối cuộc sống trần thế của ông… . Ông là một người thầy về lẽ thật. Ông đã để lại một di sản đầy danh dự và tình yêu thương. Cầu xin Thượng Đế ban phước cho sự tưởng niệm ông.”

Chủ Tịch Thomas S. Monson, Đệ Nhất Cố Vấn trong Đệ Nhất Chủ Tịch Đoàn

Ghi Chú

  1. “Responsibilities of Shepherds,” Ensign, tháng Năm năm 1995, 46.

  2. “To Become One of the Fishers,” Ensign, tháng Giêng năm 1973, 81.

  3. Trong Wm. Grant Bangerter, “Elder James E. Faust,” Ensign, tháng Mười năm 1986, 7.

  4. Ensign, tháng Năm năm 1995, 46.

  5. “Finding the Abundant Life,” Liahona, tháng Mười Một năm 2000, 5.

  6. “Response to the Call,” Ensign, tháng Mười Một năm 1978, 20.

  7. Xin xem Neal A. Maxwell, “President James E. Faust: ‘Pure Gold,’” Liahona, tháng Mười năm 1995, 21.

  8. Trong James P. Bell, In the Strength of the Lord: The Life and Teachings of James E. Faust (1999), 229.

  9. Ensign, tháng Giêng năm 1973, 81.

  10. Xin xem “Elder James E. Faust of the Quorum of the Twelve,” Ensign, tháng Mười Một năm 1978, 95.

  11. Ensign, tháng Mười Một năm 1978, 20.

  12. “Honesty—a Moral Compass,” Ensign, tháng Mười Một năm 1996, 42; xin xem thêm “Stand up and Be Counted,” Tambuli, tháng Mười năm 1982, 22–23.

  13. “Sứ Điệp Dành cho Các Cháu Trai của Tôi,” Liahona, tháng Năm năm 2007, 56.

  14. Liahona, tháng Mười năm 1995, 21.

  15. In the Strength of the Lord, 178.

  16. David Galbraith, trong In the Strength of the Lord, 207.

  17. “Go Bring Them in from the Plains,” Liahona, tháng Mười Một năm 1997, 7.

  18. “Việc Này Có Ích Lợi Gì cho Tôi?” Liahona, tháng Mười Một năm 2002, 22.

  19. “Chào Mừng Mọi Người,” Liahona, tháng Tám năm 2007, 3, 5.

  20. “Quyền Năng Chữa Lành của Sự Tha Thứ,” Liahona, tháng Năm năm 2007, 69.

  21. “It Can’t Happen to Me,” Liahona, tháng Bảy năm 2002, 54.

  22. “The Weightier Matters of the Law: Judgment, Mercy, and Faith,” Ensign, tháng Mười Một năm 1997, 59.

  23. Thomas S. Monson, trong Liahona, tháng Mười năm 1995, 19.